Monday, August 19, 2013

Người Mỹ nghĩ gì khi uống “Trà”

image
Các lọai “Trà” Hoa Kỳ thường uống, dân Mỹ nghĩ gì khi uống “Trà”
Trước đây , khi bà hay mẹ cho con hay cháu uống trà – tea để bớt cảm hàn – colds thì lựa chọn thật là đơn giản: đó là trà Tetley hay trà Lipton. Ngày nay, các tiệm thực phẩm lại bán vô số lọai trà. Và dân Mỹ uống trà nhắm hai mục đích: thưởng thức hương vị hay cố chữa lành bệnh, mạnh khỏe. Theo Hiệp Hội Trà Hoa Kỳ, năm 2011, dân Mỹ đã uống hơn 65 tỉ tách trà hay hơn 3 tỉ ga lông( một ga lông Mỹ gần 4 lít ).

Trà bán ra ở Hoa Kỳ để giúp tiêu hóa, máu tuần hòan dễ dàng hơn, gíúp bạn ngủ ngon hơn và làm bạn có thể thông minh hơn. Nhưng sau đây là một cảnh báo: bạn thường thấy nhãn hiệu trên chai – lọ – hộp nói rằng những tuyên bố vừa kể chưa được Cơ Quan Thực phẩm và Dược Phẩm –FDA ( The Food and Drug Administration ) Hoa Kỳ đánh gía xong và “ sản phẩm này không có ý định chuẩn đóan, chữa lành hay ngăn ngừa bệnh nào cả”. Điều này có nghĩa là chính người tiêu thụ phải tự xét đến những thành phần ở nhiều lọai trà. Bà Zoe Gardner, nhà quản lý khảo cứu và phát triển ở hãng bán trà Thuốc Truyền Thống- Traditional Medicicinals tọa lạc ở bang Ca Li nói rằng có nhiều cách xem xét các thành phần trong trà. Ở Canada, tại nhiều công ty trà phải được duyệt qua một tiến trình cấp môn bài của chánh phủ, theo lời bà.

image
Chẳng hạn với lá cây muồng senna , tông chi- genus khoa học là Cassia ở miền Nam bang Ca li và bang Arizona là những cây mộc ( thân gỗ ) hay cây lùm bụi – shrubs vạn niên thanh ( luôn luôn xanh ), nữa mùa rụng lá hay rụng lá hoàn tòan khi có lạnh, thường dùng làm cây cảnh hoa màu vàng hay hay màu vàng kim, nên có tên nói tắt là Yellow hay Golden như Muồng Nến Candle Bush, tên Việt Nam là Muồng Trâu, bụi lùm rụng lá nguồn gốc nhiệt đới C. alata; Muồng Hòang Yến cây thân gỗ hình như lá luôn luôn xanh Golden Wonder Senna C. Splendida; Muồng lá lông trắng xóa Wooly Senna, bụi lùm vạn niên thanh C. tomentosa v.v… Ở Việt Nam đã kiểm kê phân lọai được 25 – 26 lòai – species của tông Cassia , vài lòai hoa đỏ như C. Grandis là Cây Ô Môi Pink Coral Shower , chịu được đất ẩm; Muồng hoa đào – Pink Cassia Cassia javanica v.v… Hoa, lá, rễ, vỏ, cành một số loài Cassia sp. nước nhà đã được dùng làm thuốc Nam trị nhiều lọai bệnh người. Lá muồng Senna Mỹ đã được ghi chép từ năm 990 sau Công Nguyên ở Ai Cập và đã thông dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, làm thuốc xổ – laxative .

image
Thật thế, nhiều thành phần tìm thấy ở các trà hiện nay, đã được tiêu thụ hàng ngàn năm rồi. Theo Diane MsKay, một nhà khảo cứu về các chất kháng ôcxy hóa – antioxydants ở Trung tâm Khảo cứu Dinh dưỡng Jean Mayer của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ – USDA về lão hóa – aging tại Viện Đại học Tuft thành phố Boston, nghiên cứu về các lợi lộc trên sức khỏe khi uống trà, có vài đường xuống dốc khi uống trà. Cả hai nhóm trà truyền thống ( đen hay xanh ) và trà cây cỏ – herbal teas đều làm từ các sản phẩm căn bản là cây cối- thực vật, thảy đều tốt cho bạn. Các chứng cớ khoa học tốt nhất về lợi ích cho sức khỏe đều căn cứ trên khảo cứu trà xanh và trà đen. Còn khảo cứu về trà cây cỏ thì rất ít.

Trà xanh và trà đen

image
Cả hai đều chứa flavonoids là những chất kháng ốcxy- hóa. Một chất này tên gọi là epigallocatechin gallate – EGCG được tìm thất rất nhiều ở trà xanh và được xem là giúp chống trả các gốc tự do – free radicals là những chất góp phần gây ung thư, bệnh tim và làm nghẹt động mạch. Tiến trình lên men để chế tạo trà đen, chuyển hóa EGCG thành những hợp chất khác, nhưng cũng có hợp chất trong trà đen giúp tim lành mạnh và chống ung thư nữa. Và trà có thể giúp bạn chút ít thông minh hơn, theo lời Andrea N. Giancoli, một bà phát ngôn viên Viện Hàn Lâm Dinh Dưỡng và Ăn Uống Kiêng Cử . Ca Cả hai trà đen và trà xanh chứa theanine, một amino acid giúp cải thiện chú ý và thêm khả năng học hỏi và trí nhớ. Cả hai trà đen và trà xanh đều chứa caffe6ine, có thể làm ai đó lo lắng bồn chồn qúa độ. Tuy nhiên trung bình một tách trà chứa ít caffêin hơn một tách cà phê. Theo Mayo Clini , một tách trà đen 8 ounce ( 226.8 gr , vì 1 ounce = 28.35 gr ) chứa 12- 14 milligram caffêin. Một số lượng trà xanh tương tự chỉ chứa 24- 40 mg. Trong khi một tách cà phê pha chế chứa đến 95- 200mg caffêin .

image
Trà đen và trà xanh mới là trà “thật sự”, xuất phát từ cây trà tên khoa học là Camellia sinensis , một lọai lùm bụi nguồn gốc ở Trung Quốc và ở Ấn Độ. Các trà cây cỏ còn gọi là nước sắc – tisane chế biến ra từ ngâm nước hoa, lá, rễ hay các bộ phận khác của cây cỏ.Vài lòai trà này trộn lẫn với trà thật sự; vài lọai không trộn lẫn tí nào. Rất nhiều cây cỏ đã được sử dụng ở y khoa truyền thống hay dân dã từ nhiều thế kỷ, nhưng rất ít khi được nghiên cứu chánh thức. Tuy nhiên, McKay lưu ý là điều này không có nghĩa là chúng vô dụng. Nó có nghĩa là chúng ta không thể xác nhận các ảnh hưởng của chúng hay những tuyên bố, vài công ty nói về chúng.

Theo bà, cũng không rỏ là những số lượng cây cỏ trộn vào các trà cây cỏ thương mãi, có đủ giúp chúng ta cải thiện sức khỏe hay không. Uống trà nóng hay trà lạnh đều không có gì khác biệt, theo lời McKay, nếu bạn tự pha chế lấy. “ Đa số trà đá – iced tea vô chai, trà đá sẳn sàng để uống, chỉ chứa quá ít flavonoids và trộn thêm qúa nhiều đường cho nên chúng không đem lại những lợi sức khỏe như tách trà mới pha chế. Mac Kay lưu ý thêm là thêm nước đá sẽ làm lõang đi số lượng trà bạn đang uống. Cơ quan FDA cũng đã lưu ý là không nên dùng cây cỏ cho trẻ em, căn cứ trên một xuất bản ở tạp chí Nhi khoa – Pediatrics. Các tác giả của nghiên cứu tìm thấy là khỏang chừng 9 % trẻ em có thể đã được thêm thực vật – botanical supplements và trà cây cỏ ở chế độ ăn uống trong năm đầu sau khi sinh và nói rằng: “các lọai bổ sung chế độ ăn uống và trà đã quá rộng lớn đối với trẻ em đã làm tăng thêm ý kiến là vài lọai có thể không lành mạnh, không an tòan.”

image

Trà cúc La Mã – Chamomile tea

image
Ở Hoa kỳ và Âu Châu, trà cúc (La Mã ) thường thuộc lòai hàng niên Matricaria recutita ( M, chamomila), một lọai cây cỏ hàng niên ca chừng 60 -80 cm. Lá như lá ráng, dương sĩ – fernlike hoa như hoa cúc nhỏ trắng hay vàng vàng chừng 2- 3 cm. Hoa phơi khô cho một lòai trà cúc thơm có mùi dứa ( thơm , khóm ). Tuy nhiên nhiều lọai trà cúc bán dưới tên Matricaria lại thuộc các lòai thực vật khác, tỉ như các giống trà cúc White star, Snow ball, Golden ball ( màu hoa vàng tươi ), phần lớn lá mùi hắc hắc, lại thuộc lòai Chrysanthemum parthenium. Còn trà cúc hoa khá đắng lại thuộc lòai Chamaemelum nobile( Anthemis nobilis ). Các lòai này không thấy ghi có mặt ở cây cỏ Việt Nam, tuy rằng sách đã ghi 5 loài tông chi Chrysanthemum , đặc biệt là C. coronarium Cúc Tần Ô , hoa -thân non làm rau xà lát, C. ( Tanacetum ) cinearariifolium trồng trước đây ở Đà Lạt lấy pyrethtrum làm thuốc diệt côn trùng – sâu bọ và 14 – 15 lòai tông Artemisia , đặc biệt là lòai Artemisia annua Thanh Cao, Thảo cao, Chè Nội trích lấy thuốc trị sốt rét Artemisin v.v…
Dù rằng trà cúc La Mã bán ra như thể là một lọai trà trị mất ngũ và làm yên tĩnh tâm thần , McKay lại cho rằng không có gì bảo đảm chắc chắn cho tuyên bố này cả . Tuy nhiên đừng vất bỏ trà cúc ,vì nó chứa đựng một kháng ốc xy -hóa tốt cho tim , chống viêm sưng và hạ bớt cholesterol.

Trà gừng – Ginger tea

image
Các nhà khảo cứu viện đại học Maryland nhấn mạnh là gừng đã được sử dụng hơn 2000 năm nay để giúp tiêu hóa, trị đau dạ dày, tháo dạ và ói mửa. Những nghiên cứu còn cho thấy là gừng có thể ngăn ngừa bệnh họan chuyển động- motion sickness và giảm bớt bệnh chóang váng đầu buổi sáng – morning sickness . Chịu đựng trà gừng dễ dàng, khi dùng theo các nồng lượng điển hình. Nồng lượng quá cao có thể gây ra đau bụng, ợ chua nóng – heatburn, ỉa chảy- diarrhea .

Trà Bạc hà – Mint tea

image
Cây bạc hà ở nước ta thuộc hai tông chi thực vật khác nhau : tông Alocasia họ Môn Araceae có lòai Alocasia odora, lá và nhất là cuống dài dùng làm rau nấu canh và tông Mentha thuộc họ Húng Lamiaceae. Tông Mentha có 5 lòai hiện diện ở Việt Nam, cũng thường có tên là các lọai rau húng. Chỉ có lòai Mentha piperita, lá dùng ở nước nhà trích tinh dầu menthol hơn là dùng làm trà, mới có tên là Bạc hà. Tại Hoa Kỳ, có 6 lòai bạc hà – mint ( Mentha gentilis Golden Apple mint, M. piperita Peppermint, M. pulegium Penny royal, M . requinii Jewel Mint of Corsica, M. spicata Spearmint, M. suaveolens , nhưng thường bán dưới tên là M. rotundifolia, ở Việt Nam gọi là húng lá tròn. Trà Bạc hà dùng nhiều nhất ở Hoa Kỳ thuộc loài Peppermint, hay được xem là giúp tiêu hóa, nhưng Mckay lại nói rằng rất ít khi nghiên cứu trà này trên con người. Mc Kay cho rằng vài người nên xa lánh trà Bạc hà vì trà này có thể làm ai bị bệnh chảy ngược dạ dày thực quản – gastroesophagal reflux có cơ làm bệnh nặng thêm. Trà Bạc hà M. pulegium tuy có mùi vị bạc hà mạnh mẽ, nhưng có thể độc hại khi dùng số lượng lớn. Bạc hà châu báu đảo Corse hương vị thơm tho, khi chân dẫm nát lá, không sống được mùa đông ở vùng quá lạnh.

Trà Bồ công Anh – dandelion tea

image
Bồ công Anh, Bồ cốc trồng ở Việt Nam dùng lá làm rau hơi đắng và làm thuốc có tên khoa học là Lactuca indica indian lettuce. Lòai Bồ công Anh tên Pháp là pissenlit , dendelion , Việt Nam gọi là Sư nha hay Địa đinh thuộc lòai Taraxacum officinalis , lại là lòai cỏ mọc hoang ở cao nguyên. Ở Hoa Kỳ và Âu Châu cũng là cỏ hoang dại mọc ở vườn hoa, nhưng khi trồng ăn lá thì dùng các giống tuyển chọn lá to hơn và dày hơn. Rau Bồ công Anh mùi vị lá non ăn như mùi vị ăng điu, rau diếp quăn – endive. Jennings cho biết là trà Bồ công Anh không độc hại gì cho bạn mà cũng không giúp ích gì bạn cả. Tuy bà nói Bồ công Anh giàu các chất kháng ôcxy- hóa , giàu calcium, giàu sắt, nhưng nồng lượng trong trà Bồ công Anh không nhiều để đưa tới lợi ích. Ăn lá non Bồ công Anh làm xà lách hay nấu chín lá già, theo lời bà là phương cách tốt nhất để có lợi ích cho sức khỏe.

Trà bụp búp ( bút ) , bông cẩn – hihiscus tea

image
Trà bông bụp – bông cẩn có mùi vị chua chua, thường có lợi cho con người. Trên một nghiên cứu của Tạp chí Dinh Dưỡng, McKay và các bạn đồng nghiệp nhìn xem thử là số lượng hibiscus trong gia vị Red Zinger ( hảng Celestial Seasonings ) có làm hạ thấp áp huyết những ai bị hiểm nguy cao áp huyết và tìm ra là uống ba chén trà hibiscus ( lá hay hoa ) một ngày, thật sự làm giảm cao áp đáng kể sau 6 tuần lễ .

II- Bạn tưởng bạn biết rõ về trà. Hãy suy nghĩ lại đi .

- Thêm sữa vào trà có làm mất đi lợi ích cho sức khỏe không. Sai, theo Kerri –Ann Jennings, một nhà ngành học Chế độ ăn Uống – Dietetian. Dù rằng những nghiên cứu trước đây nói là đúng như thế, nhưng khảo cứu gần đây nhất cho thấy là thêm sữa vào trà không làm mất đi các lợi ích cho sức khỏe

- Đàn bà có thai có nên cẩn thận về tiêu thụ trà . Đúng . Trà đen và trà xanh chứa caffêine, các bà có thai cần giới hạn. Các trà cây cỏ là những pha trộn và có thể chứa những sản phẩm tai hại cho đàn bà mang thai. Các bà có chửa cần hỏi các bác sĩ về mọi lọai trà họ tiêu thụ cũng như uống trà chứa caffêin, theo lời Diane McKay, một nhà khảo cứu các chất kháng ôcxy- hóa tại Viện đại học Tuft.

image
- Vài lọai trà có thể gây ra phản ứng dị ứng – allergy reactions . Đúng . Nếu hoa làm bạn hắt hơi sổ mũi , nên nhớ là trà chamomile tea lấy ra từ hoa chamomile. Các trái cây hoa hồng – rose hips thường hay được pha trộn vào các lòai trà cây cỏ. Nếu bạn nhạy cảm với nhiều lòai thực vật đăc biệt hay có một phản ứng bất thường với một lòai trà nào đó, bạn hãy tìm một lọai khác thay thế .

- Đừng dùng sinh tố và trà chung nhau . Đôi khi đúng. Trà, đặc biệt là trà đen chận đứng hấp thu sắt từ thực phẩm hay các chất bổ sung , phụ gia. McKay khuyến cáo nên tránh dùng trà khi đang uống sinh tố hay đang ăn những thực phẩm giàu sắt. Điều này rất quan trọng cho các đàn bà có chửa đang uống sinh tố trước khi sinh .

- Hãy uống trà khi bạn cảm hàn . Đúng. Khi cảm hàn hay đau cổ họng, một tách trà ấm của bất cứ lọai trà nào cũng sẽ giúp làm dịu bớt đau cổ họng ngay. Trà làm ra từ Camellia sinensis nghĩa là trà đen, trà ô long – oolong và trà xanh đều có chất kháng ốc xy- hóa và các đặc tính kháng viêm sưng, cho nên có thể làm giảm bớt các triệu chứng, theo lời Mckay .

image
- Trà xanh tương tác với các chất kháng đông máu- anti coagulants . Đúng . Trà xanh là một nguồn sinh tố K có thể ảnh hưởng đến những chất làm loãng máu – thinners tỉ như warfarin ( coumadin ). Vì chưng những số lượng lớn của trà xanh đã cho thấy là có thể thật sự tăng gia hửu hiệu của warfarin, cho nên bạn phải hỏi bác sĩ bạn nếu như bạn đang uống thuốc loãng máu .

- Trà nóng tốt hơn trà đá. Sai. Trà đá phổ thông ở Hoa Kỳ hơn là trà nóng . Trà đá có thể tốt cho sức khỏe hơn trà nóng, theo chú thích của Mc Kay, nhưng chỉ khi nào bạn tự pha lấy trà. Và bạn cũng cần uống nhiều trà đá hơn để có công hiệu như trà nóng. Vì khi làm trà đá, bạn cần đun sôi nhiều gói trà trong nước sôi, rồi bạn pha loãng nó đi và thêm nước đá vào. Cho nên một tách trà đá pha tại nhà, sẽ chứa ít flavonoids hơn là một tách trà nóng bạn vừa mới pha xong.

image
- Trà là trà. Không nên mua các trà cây cỏ đắt tiền. Sai. Mọi lọai trà đều được chế tạo ngang hàng nhau, theo lời Jenny Perez , nhà phối hợp gíáo dục cho Ủy Ban Thực vật Học Mỹ. Lời khuyên của bà ta: Hãy lựa chọn các nhãn hiệu dùng những loại cây cỏ danh mục dược phẩm – pharmacopoeial có phẩm giá, một tiêu chuẩn cho phẩm giá, thuần nhất, sức mạnh, xác định và thành phần tốt. Perez nói là bà chỉ mua các trà y khoa truyền thống .

( Phần lớn chiếu theo theo David Levine, ngày 27 tháng 7 năm 2013 )
( Irvine, Nam Ca Li- Hoa Kỳ, ngày 30 tháng 7 năm 2013 )



GS Tôn Thất Trình

No comments:

Post a Comment